Vấn đề mới của nước Đức

VẤN ĐỀ MỚI CỦA NƯỚC ĐỨC

Thời đại của sự sụp đổ của bức tường Berlin đã ở phía sau chúng ta. Một cách bất ổn, Đức đang bước vào giai đoạn mới.

Giai đoạn này đặt ra cho toàn bộ Châu Âu một câu hỏi làm chóng mặt: điều gì sẽ xảy ra sau khoảng thời gian chuyển tiếp của Đức?

Một tài liệu học thuyết có chữ ký của Timothy Garton Ash.

Timothy Garton Ash[*]

Lực lượng biên phòng Đông Đức kiểm tra thiệt hại của Bức tường Berlin tại Cổng Brandenburg. © Rolf Schulten/SIPA

Trái với con người, các quốc gia có thể trẻ và già cùng một lúc. Hơn 1900 năm trước, Tacite đã nói đến một đất nước mà ông gọi là Germania. Trong tác phẩm Germania vào thế kỷ 15 của mình, Aeneas Silvius Piccolomini, được biết đến với cái tên Giáo hoàng Pie II, đã ca ngợi các thành phố của Đức là “sạch sẽ nhất và đẹp mắt nhất” ở khắp Châu Âu. Nhưng quốc gia mà chúng ta biết ngày nay là Đức, Cộng hòa Liên bang Đức, mới tròn 75 tuổi vào ngày 23/5. Hình thái lãnh thổ hiện tại của nó có niên đại chưa đầy 34 năm – kể từ khi Tây và Đông Đức thống nhất vào ngày 3 tháng 10 năm 1990, sau sự sụp đổ của Bức tường Berlin vào ngày 9 tháng 11 năm 1989.

Tuy nhiên, thời kỳ hậu sụp đổ của bức tường đã qua. Và tất cả mọi người, kể cả người Đức, đều đang tự hỏi nước Đức sẽ trở thành cái gì. Không chỉ những gì Đức sẽ làm – mà còn là những gì Đức sẽ trở thành. Trong cuốn sách mới xuất sắc của mình Nước Đức: Một quốc gia trong thời đại của nó/Germany: A Nation in Its Time, nhà sử học người Mỹ gốc Đức Helmut Walser Smith nhắc nhở chúng ta rằng đã có bao nhiêu “nước Đức” khác nhau trong 5 thế kỷ kể từ lần xuất bản đầu tiên cuốn Germania của Piccolomini vào năm 1496. Không chỉ các biên giới và các chế độ chính trị đã thay đổi nhiều lần, nhưng những đặc điểm chính của dân tộc Đức cũng đã biến đổi.

Trái với con người, các quốc gia có thể trẻ và già cùng một lúc.

TIMOTHY GARTON ASH

Đôi khi sự thống nhất chủ yếu là về văn hóa: đất nước của những Dichter (nhà thơ) và những Denker (nhà tư tưởng); “quê hương của tư tưởng” được Madame de Stäel mô tả trong tác phẩm De l’Allemagne/Về nước Đức, xuất bản năm 1813; một nước Đức, theo tiểu thuyết gia vĩ đại người Anh thế kỷ 19 George Eliot, đã tiến hành cuộc đấu tranh cam go nhất cho tự do tư tưởng, đã tạo ra những phát minh vĩ đại nhất, đã có những đóng góp to lớn cho khoa học, đã mang đến cho chúng ta một số bài thơ hay nhất – và âm nhạc tuyệt vời nhất – thế giới.

Sau hai cuộc chiến tranh thế giới, đã có nhiều người đương nhiên đồng hóa nước Đức với chủ nghĩa quân phiệt. Tuy nhiên, Smith cho thấy rằng chi tiêu quân sự của nước Phổ, sau đó là Đức, trên thực tế đã thay đổi liên tục trong ba thế kỷ, với những thăng trầm là kết quả của cả nguyên nhân bên trong và bên ngoài.

Kể từ năm 1770, nước Đức đã trải qua các chu kỳ về bản sắc văn hóa, kinh tế và chính trị-quân sự.

TIMOTHY GARTON ASH

Tuy nhiên, rất thường xuyên nước Đức được đồng hóa với sự phát triển và những kỳ công kinh tế. Điểm này được đưa nhấn mạnh trong cuốn sách mang tên Bản sắc Đức/German Identity, được nhà sử học Harold James ở Princeton xuất bản năm 1989. Theo James, chúng ta có thể coi nước Đức, kể từ năm 1770, đã trải qua các chu kỳ về bản sắc văn hóa, kinh tế và chính trị-quân sự. Như là một linh tính, ông viết rằng Clio, nữ thần của lịch sử, “nên cảnh báo chúng ta không nên đặt quá nhiều niềm tin vào Mercure – vị thần của kinh tế”.

Các đoạn tường trên đường Leuschnerdamm ở Kreuzberg, phía sau nhà thờ Michaelkirche ở Mitte, Berlin, năm 1990. © Rolf Schulten/SIPA

Giành chiến thắng ở phần cuối của lịch sử

Nước Đức sau năm 1989 tin tưởng vào Mercure.

Sau khi Tây Đức, do Thủ tướng Helmut Kohl lãnh đạo, bất ngờ đạt được mục tiêu thống nhất theo các điều kiện của Phương Tây, Cộng hòa Liên bang – cũ và mới – đã chuyển thủ đô từ Bonn đến Berlin và vừa lòng với việc trở thành một cường quốc hài lòng với hiện trạng. Trong tinh thần của thời đại, chiều kích kinh tế của quyền lực đã chiếm ưu thế.

Nhà sử học James Sheehan gọi tình huống đặc thù này là Primat der Wirtschaftspolitik – vị trí hàng đầu cho chính sách kinh tế – nhưng đó cũng là Primat der Wirtschaft – vị trí hàng đầu cho kinh doanh. Một câu nói nổi tiếng, được gán một cách sai lầm cho cựu Tổng thống Mỹ Calvin Coolidge, là: “Mỹ là kinh doanh”. Nếu người ta nói về Cộng hòa Berlin sau năm 1989 rằng “công việc của nước Đức là việc kinh doanh”, thì người ta sẽ không sai quá nhiều. Tình trạng này liên quan đến ảnh hưởng rất trực tiếp của các công ty Đức hiện có đối với chính phủ Đức, được củng cố bởi hệ thống quan hệ công nghiệp mang tính hợp tác đặc biệt của Tây Đức được gọi là Mitbestimmung/Sự Hợp tác quản lý. Nếu không phải các ông chủ của các công ty ô tô hay hóa chất lớn gọi điện trực tiếp cho Thủ tướng thì đó cũng là các lãnh đạo nghiệp đoàn, tất cả đều nhấn mạnh đến một thỏa thuận thương mại có lơi. Các ông chủ công ty và các lãnh đạo nghiệp đoàn sau đó có thể tranh cãi về cách chia chiếc bánh đã đạt được.

Người Đức có niềm tự hào dân tộc rất lớn về những thành công của họ trong hai lĩnh vực: bóng đá và xuất khẩu. Trong cả hai trường hợp, họ có thể hãnh diện là Vô địch thế giới/Weltmeisters. Năm 2021, 47,5% GDP của đất nước đến từ xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ. Sự tăng trưởng đáng kể nhất đến từ thương mại với Trung Quốc, quốc gia mà Đức đã trở nên phụ thuộc nhiều hơn bất kỳ quốc gia Châu Âu nào khác. Khi mà Đức tự nhận mình là một cường quốc dân sự nhưng hiện nước này xuất khẩu rất nhiều vũ khí, trong đó có khoảng 400 tên lửa Taurus sang Hàn Quốc – quốc gia đang phải đối mặt với cuộc xung đột chưa được giải quyết với một nước láng giềng khó lường có vũ khí hạt nhân. Trong những năm từ 2019 đến 2023, Đức chiếm 5,6% thị phần xuất khẩu vũ khí toàn cầu, trước Anh nhưng vẫn đứng sau Pháp. Mars đã phục vụ Mercure.

Người Đức có niềm tự hào dân tộc rất lớn về những thành công của họ trong hai lĩnh vực: bóng đá và xuất khẩu.

TIMOTHY GARTON ASH

Đối với nhiều người Đức, bao gồm cả hàng triệu người rời Đông Đức, mà dân số ngày càng giảm, để định cư ở các vùng phía Tây đất nước, những năm này rất huy hoàng.

Với sự mở rộng của Liên Minh Châu Âu và NATO về phía Đông, Đức đã không còn phải chịu tình trạng bất an của một quốc gia tiền tuyến. Như cựu Tổng thống Tây Đức Richard von Weizsäcker đã nói, Đức đã tự giải phóng mình khỏi vị trí trung gian tai hại giữa Đông và Tây, vì giờ đây nước này được bao quanh bởi các thành viên khác của Phương Tây về mặt địa chính trị. Kết quả là chi tiêu quốc phòng của nước này sẽ chỉ đạt 1,1% GDP vào năm 2005. Nước Đức, vừa già vừa trẻ còn có sức hấp dẫn rất lớn. Theo một cuộc thăm dò quốc tế do BBC thực hiện năm 2013, Đức là quốc gia được đánh giá tốt nhất trên thế giới. Có những người nước ngoài khoan dung cũng đã viết sách về chủ đề này, chẳng hạn cuốn Tại sao người Đức làm điều đó tốt hơn/ Why the Germans Do It Better của nhà báo người Anh John Kampfner – ngay cả khi sự thật là làm tốt hơn Vương quốc Anh sau Brexit không phải là đặt ra tiêu chuẩn quá cao. Sức lôi cuốn này giúp giải thích tại sao rất nhiều người tị nạn và người di cư muốn – và vẫn muốn – đến Đức.

Trong thời kỳ căng thẳng giữa Bắc và Nam Âu trong cuộc khủng hoảng khu vực đồng Euro, người Đức có xu hướng cho rằng thành công kinh tế của họ là nhờ vào kỹ năng, sự chăm chỉ và đức tính của chính họ. Suy cho cùng, họ đã không chồng chất nợ nần như những người Nam Âu. Ngành công nghiệp Đức thực sự có những thế mạnh phi thường, như bất kỳ ai lái xe BMW, giặt đồ trong máy giặt Miele, nấu bữa ăn trong lò nướng Bosch hay mang tất Falke đều biết. Đầu những năm 2000, đối mặt với cái giá phải trả khổng lồ của việc thống nhất nước Đức, chính phủ của Gerhard Schröder đã làm việc với các lãnh đạo doanh nghiệp và nghiệp đoàn để thông qua một loạt cải cách đau đớn giúp duy trì chi phí đơn vị của lực lượng lao động Đức ở mức thấp, trong khi nó tăng vọt ở Nam Âu.

Năm 2013, Đức là quốc gia được đánh giá tốt nhất trên thế giới.

TIMOTHY GARTON ASH

Nhưng thành công kinh tế này cũng là kết quả của một loạt các hoàn cảnh bên ngoài đặc biệt thuận lợi. Đồng tiền chung châu Âu – mà ban đầu nhiều người Đức coi là sự hy sinh đau đớn cho đồng Mark Đức quý giá của họ – đã mang lại lợi ích kinh tế đáng kể cho các công ty Đức, những công ty có thể xuất khẩu sang phần còn lại của khu vực đồng euro mà không gặp rủi ro biến động tiền tệ và sang phần còn lại của thế giới với tỷ giá hối đoái cạnh tranh hơn tỷ giá mà Mark hùng mạnh từng có thể hưởng lợi. Đồng thời, việc mở rộng Liên Minh về phía Đông đã cho phép các nhà sản xuất Đức di dời các cơ sở sản xuất của họ nhằm sử dụng lao động có tay nghề, giá rẻ ở các nước như Ba Lan, Hungary và Slovakia, trong khi vẫn xuất khẩu tự do trên toàn bộ thị trường duy nhất của Liên Minh. Theo một cách nào đó, đây là sự hiện thực hóa tầm nhìn của Friedrich Naumann được hình thành vào năm 1915, người đã coi Mitteleuropa/Trung Âu là một khu kinh tế chung do Đức lãnh đạo. Sự khác biệt là việc này được thực hiện một cách hoàn toàn hòa bình, về cơ bản là có lợi cho cả hai bên và trong khung chính trị và pháp lý rộng lớn hơn của Liên Minh.

Các điều kiện bên ngoài Châu Âu thậm chí còn quan trọng hơn. Constanze Stelzenmüller, một nhà bình luận người Đức làm việc ở Washington, đã tóm tắt nó một cách hiệu quả: Bà viết “Đức, sau năm 1989, đã giao các nhu cầu an ninh của mình cho Hoa Kỳ, các nhu cầu năng lượng của mình cho Nga và các nhu cầu tăng trưởng kinh tế của mình cho Trung Quốc.”

Các quốc gia thay đổi nhưng cũng thể hiện sự liên tục sâu sắc. Người Pháp khao khát chủ nghĩa phổ quát, người Anh bám vào chủ nghĩa kinh nghiệm. Người Đức đã xuất sắc trong lĩnh vực sản xuất ngay từ thế kỷ XV – ví dụ như máy in chữ di động của doanh nhân Mainz Johannes Gutenberg – và họ vẫn như vậy. Một trong những tính liên tục sâu sắc khác của nước Đức là điều mà nhà tư tưởng người Đức gốc Anh Ralf Dahrendorf xác định là khát vọng tổng hợp của người Đức. – “Chân lý là tổng thể,” Hegel viết. Trong những năm đầu tiên sau khi Bức tường sụp đổ, nhà khoa học chính trị Hans-Peter Schwarz đã nói về “nhu cầu hài hòa hóa” của đồng bào ông.

Với sự phụ thuộc ngày càng tăng đối với bên ngoài này, việc tổng hợp không chỉ trở thành một ưu tiên về mặt ý thức hệ mà còn trở thành một mệnh lệnh chính trị. Mọi thứ không chỉ phải được liên kết mà còn phải tương thích với mọi thứ khác. Lợi ích của Đức cũng phải là lợi ích của Châu Âu. Ngoài Châu Âu, Đức có thể là bạn của Mỹ, cũng như của Nga và Trung Quốc – tất cả cùng một lúc. Và điều quan trọng là mô hình thương mại dựa trên xuất khẩu của đất nước cũng hài hòa với mô hình chính trị dựa trên các giá trị. Theo logic này, người Đức có thể đạt được thành công nếu làm tốt.

Người Đức đã biến sự kiện phi tuyến tính nhất trong lịch sử Châu Âu hiện đại – sự sụp đổ của Bức tường Berlin – thành một dự phóng tuyến tính hoàn hảo.

TIMOTHY GARTON ASH

Trong trường hợp của Cộng hòa Liên bang, làm tốt có một ý nghĩa đặc biệt.

Điều này có nghĩa là học được những bài học của quá khứ Quốc xã và do đó luôn bảo vệ hòa bình, nhân quyền, đối thoại, dân chủ, luật pháp quốc tế và tất cả những điều tốt đẹp khác mà chúng ta gắn liền với lý tưởng trật tự quốc tế tự do. Nước Đức hoạt động như thế nào về mặt này là chủ đề của một cuốn sách dài đáng chú ý khác, Out Of the Darkness: The Germans 1942-2022/Thoát khỏi bóng tối: Người Đức 1942-2022 của Frank Trentmann, một lịch sử đạo đức sâu sắc mà sự phán quyết rõ ràng là mập mờ.

Vết tích của Bức tường Berlin giữa Neukoelln, bên phải, và Treptow, đường Bức tường Berlin Heidelberger Strasse. © Rolf Schulten/SIPA

Những yêu sách về sự tổng hợp và hài hòa này được ghi nhận trong một tầm nhìn rộng lớn hơn – được phổ biến rộng rãi ở hầu hết các nước phương Tây trong những năm sau khi Bức tường sụp đổ, nhưng không nơi nào nhiều bằng ở Đức – về cách lịch sử diễn ra. Nói cách khác, đó là một lỗi ngoại suy. Thomas Bagger, nhà ngoại giao trí thức nhất nước Đức, đã quan sát thấy rằng đồng bào của ông đã coi sự kiện phi tuyến tính nhất trong lịch sử Châu Âu hiện đại – sự sụp đổ của Bức tường Berlin – và biến nó thành một phép dự phóng tuyến tính hoàn hảo. Nói cách khác, họ coi lịch sử với một chữ h nhỏ, lịch sử như nó thực sự xảy ra – một mặt là sự tương tác giữa cấu trúc sâu sắc và tiến trình, mặt khác là tính ngẫu nhiên, tình huống, ý chí tập thể và sự lãnh đạo cá nhân – và biến nó thành lịch sử với một chữ H viết hoa, một quá trình Hegelian về sự mở rộng tất yếu của tự do. Tất nhiên, trong tiếng Đức, sự phân biệt h nhỏ/H lớn không được áp dụng vì tất cả các danh từ đều có chữ in hoa. “Sự kết thúc của lịch sử” có thể là một ý tưởng của người Mỹ, nhưng chính người Đức mới là những người sống giấc mơ tân Hegel với đôi mắt rộng mở.

“Sự kết thúc của lịch sử” có thể là một ý tưởng của người Mỹ, nhưng chính người Đức mới là những người sống giấc mơ tân Hegel với đôi mắt rộng mở.

TIMOTHY GARTON ASH

Vậy là lịch sử diễn ra theo đúng xu hướng của chúng ta. Đức, Châu Âu và Phương Tây nói chung đều có một mô hình mà các nước khác cuối cùng sẽ hội tụ. Toàn cầu hóa sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho tiến trình dân chủ hóa. Hẳn là Nga và Trung Quốc trông không thực sự giống những nền dân chủ tự do. Nhưng khi họ hiện đại hóa, họ sẽ cải thiện. Đầu tư và thương mại của Phương Tây sẽ giúp họ đi theo con đường được lịch sử vạch ra, trong khi sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế sẽ tạo cơ sở cho một nền hòa bình vĩnh cửu theo phong cách Kant.

Đất nước nơi Bức tường Berlin sụp đổ đã trải qua những thành công lớn nhất đồng thời nuôi dưỡng những ảo tưởng lớn nhất về Châu Âu thời kỳ hậu 1989.

Những điểm yếu của mô hình Merkel

Trong mười sáu năm qua, mô hình của Đức hậu Bức tường Berlin đã sụp đổ theo hai cách: “dần dần, rồi đột ngột” – lặp lại mô tả nổi tiếng của Ernest Hemingway về kiểu cách phá sản. Giai đoạn tuần tự từng bước trùng hợp với cuộc khủng hoảng tổng quát của trật tự Châu Âu sau 1989 bắt đầu từ năm 2008 với hai sự kiện gần như đồng thời: sự bùng nổ của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu và việc quân đội của Vladimir Putin tiếp quản hai khu vực lớn của Georgia. Nhưng bước ngoặt thực sự xảy ra vào ngày 24 tháng 2 năm 2022, với cuộc xâm lược quy mô lớn của Putin vào Ukraine.

Trong gần như toàn bộ giai đoạn đầu tiên – thực tế là từ tháng 11 năm 2005 đến tháng 12 năm 2021 – nước Đức được lãnh đạo bởi một trong những nhân vật đáng chú ý nhất trong lịch sử nước Đức hiện đại: một cựu nhà khoa học Đông Đức tên là Angela Merkel. Chúng ta sẽ phải chờ Hồi ký của Bà xuất bản – dự kiến ​​vào mùa thu này – để đánh giá đầy đủ vai trò cá nhân của Bà. Trong khi nhiều người Đức trải qua những năm tháng này như một thời kỳ tốt đẹp thì hầu hết các vấn đề mà nước Đức phải đối mặt ngày nay đều được tích tụ trong những năm này.

Hầu hết các vấn đề mà Đức phải đối mặt ngày nay đều được tích tụ trong khoảng thời gian từ tháng 11 năm 2005 đến tháng 12 năm 2021.

TIMOTHY GARTON ASH

Ưu thế trực tiếp của các công ty đã ngăn cản sự nổi trội của vị trí hàng đầu thực sự của chính sách kinh tế: hậu quả là dành đặc quyền cho các lợi ích trước mắt của các công ty Đức hiện hữu – như ngành công nghiệp ô tô và hóa chất – so với các ngành công nghiệp của ngày mai. Do đó, Đức – giống như phần còn lại của Châu Âu – tụt xa so với Hoa Kỳ và Trung Quốc khi nói đến trí tuệ nhân tạo và các công nghệ tiên tiến khác. Đức cũng có nguy cơ phải đối mặt với làn sóng ô tô điện từ Trung Quốc – vốn có thể vừa rẻ hơn vừa tốt hơn ô tô Đức.

Hai biểu hiện cực đoan của chủ nghĩa bảo thủ tài khóa – “kìm hãm nợ” được quy định trong Luật Cơ bản năm 2009 và “schwarze Null” (“số 0 đen”), sự kiên quyết trong nhiều năm của Bộ Tài chính không chấp nhận thâm hụt ngân sách – đã làm cho đất nước có nền tài chính công đặc biệt lành mạnh nhưng lại thường xuyên thiếu đầu tư vào cơ sở hạ tầng. Ví dụ dễ thấy nhất là ngành đường sắt Đức – Deutsche Bahn – đã bị cắt giảm mạnh mẽ trong viễn cảnh về một cuộc tư nhân hóa đã không bao giờ diễn ra. Theo kinh nghiệm của riêng tôi, việc các chuyến tàu liên tỉnh Deutsche Bahn bị trễ hoặc bị hủy không phải là hiếm.

Sự lựa chọn hoảng loạn nhằm từ bỏ tất cả năng lượng hạt nhân dân sự sau thảm họa Fukushima năm 2011 đã khiến quá trình chuyển đổi sang năng lượng xanh, vốn được đòi hỏi khẩn cấp bởi cuộc khủng hoảng khí hậu, thậm chí còn khó khăn hơn khi đất nước này phải loại bỏ nhiên liệu hóa thạch của Nga. Quyết định chào đón một triệu người tị nạn vào năm 2015 của Angela Merkel là một hành động nhân đạo đáng ngưỡng mộ, và hầu hết những người mới đến trên thực tế đã hòa nhập thành công vào nền kinh tế Đức, giúp giảm bớt tình trạng thiếu trầm trọng lao động có trình độ. Nhưng nỗi lo sợ rằng việc nhập cư bất hợp pháp từ các quốc gia xa xôi và thường có chủ yếu là người Hồi giáo sẽ “ngoài tầm kiểm soát” và sẽ biến đổi quá nhanh đất nước về mặt văn hóa đã đẩy nhanh sự phát triển của Alternative für Deutschland (AfD), một đảng cực hữu theo chủ nghĩa dân tộc.

Ưu thế trực tiếp của các công ty đã ngăn cản sự nổi trội của vị trí hàng đầu thực sự của chính sách kinh tế.

TIMOTHY GARTON ASH

Điều ấn tượng là AfD hiện đang dẫn trước Đảng Dân chủ Xã hội trong các cuộc thăm dò dư luận trên toàn quốc. AfD thậm chí còn làm tốt hơn ở các bang ở Đông Đức như Saxe và Thuringe, nơi nó dường như có khả năng giành chiến thắng trong cuộc bầu cử khu vực vào mùa thu này cùng với nhóm “bảo thủ cánh tả” mới do chính trị gia Đông Đức Sahra Wagenknecht lãnh đạo. Mặc dù Đông Đức được hưởng lợi từ các khoản đầu tư lớn và sự tăng trưởng kinh tế đáng kể, cái hố tâm lý giữa Đông và Tây ngày càng mở rộng thay vì được thu hẹp – ngay cả khi bà thủ tướng cũng đến từ Đông Đức. Và nhiều người Đông Đức ngày nay có ấn tượng đáng tiếc là bị đối xử như những công dân hạng hai.

Thay đổi thông qua sự đồng thuận là một trong những chìa khóa lịch sử dẫn đến thành công của Cộng hòa Liên bang – về chính trị cũng như trong quan hệ công nghiệp. Nhưng với sự phân tán của các đảng phái, được thể hiện ở cấp liên bang cũng như trong Thượng viện – thượng viện đại diện cho các bang của liên bang – và sự can thiệp đáng kể của Tòa án Hiến pháp Liên bang đầy quyền lực ở Karlsruhe, việc đạt được một sự đồng thuận hay một sự thay đổi trở nên khó khăn hơn.

Bắt đầu phá bỏ Bức tường Berlin tại Cổng Brandenburg. © Rolf Schulten/SIPA

Trong khi đó, các quốc gia khác được cho là sẽ hội tụ một cách nhẹ nhàng theo hướng lý tưởng dân chủ tự do lại đi theo hướng ngược lại, kể cả ở những nước láng giềng sát cạnh Đức. Năm 2010, Thủ tướng Hungary Viktor Orbán đã phát động một phong trào có hệ thống nhằm phá hủy nền dân chủ ở một nước mà ngành công nghiệp ô tô Đức đã đầu tư rất nhiều. Ở Trung Quốc, sự chuyển hướng thậm chí còn rõ rệt hơn, chuyển từ mong ước cao về tiến trình tự do hóa từng bước đi kèm với Thế vận hội Bắc Kinh năm 2008 sang chế độ độc tài khắc nghiệt của chế độ Tập Cận Bình ngày nay.

Khi mà sự thay đổi thông qua sự đồng thuận từng là một trong những chìa khóa lịch sử dẫn đến thành công của Cộng hòa Liên bang, việc đạt được sự đồng thuận hoặc thay đổi ngày càng trở nên khó khăn hơn.

TIMOTHY GARTON ASH

Thế mà, các công ty Đức vẫn tiếp tục đầu tư đáng kể vào các quốc gia này, thường nhắm mắt làm ngơ trước bất kỳ xung đột hoặc mâu thuẫn nào với các giá trị được tuyên bố của đất nước họ. Được khuyến khích bởi chính quyền Trung Quốc, Volkswagen, công ty ngày nay thực hiện khoảng 40% doanh số bán hàng của mình tại Trung Quốc, đã mở một nhà máy ở Tân Cương vào năm 2013 – chính xác tại nơi mà sau này Trung Quốc thực hiện các chính sách được coi một cách đáng tin cậy là mang tính diệt chủng và là nơi giam giữ một số lượng lớn người Duy Ngô Nhĩ trong các trại “cải tạo”. Vào năm 2019, Herbert Diess, khi đó là ông chủ của Volkswagen, nói với BBC rằng ông không hề biết đến sự tồn tại của những trại này. Gần đây hơn, khi tôi chỉ ra với người đứng đầu một công ty ô tô lớn khác của Đức rằng Hungary, nơi ông vừa công bố một khoản đầu tư mới khổng lồ, không còn là một nền dân chủ nữa, ông đã phủi tay gạt bỏ sự phản đối. “Các điều khoản của chúng tôi có thể khác,” ông ấy nói theo ghi chú của tôi. “Không có gì nghiêm trọng cả.”

Nhưng sự sai lầm ngoạn mục nhất trong đánh giá rõ ràng liên quan đến Nga.

Năm 2008, chính quyền George W. Bush đề xuất triển khai một kế hoạch hành động để Ukraine trở thành thành viên NATO. Đối thủ chính của ông, Angela Merkel, có một bức chân dung của Catherine II – vị nữ hoàng Nga gốc Đức – treo trong văn phòng thủ tướng của bà. Sự thỏa hiệp bắt nguồn từ việc làm dịu đi quan điểm của Đức và Mỹ sẽ tạo ra điều tồi tệ nhất cho cả hai thế giới: nó sẽ củng cố cảm giác bị đe dọa đối với Putin mà không cải thiện được an ninh của Ukraine.

Có khả năng có thể lập luận rằng thỏa thuận Minsk II – mà Đức đã giúp đàm phán vào tháng 2 năm 2015 – sau khi Putin sáp nhập Crimea và bắt đầu cuộc chiến ở miền đông Ukraine vào năm 2014, là điều tốt nhất nên làm để ổn định tình hình vào thời điểm mà các hệ thống phòng thủ của Ukraine đang sụp đổ. Nhưng điều hoàn toàn không thể bào chữa được là chính sách của Đức đã không thay đổi sau thời điểm này bằng cách đánh giá lại mối đe dọa từ Nga một cách thực tế. Bằng chứng hùng hồn nhất là, thay vì giảm bớt sự phụ thuộc năng lượng vào Nga, Đức thực sự đã gia tăng nó. Vào năm 2020, 55% khí đốt, 34% dầu và 57% than của Đức đến từ Nga.

Hoàn toàn không thể bào chữa được việc chính sách của Đức đã không thay đổi sau năm 2014 bằng cách đánh giá lại mối đe dọa từ Nga một cách thực tế.

TIMOTHY GARTON ASH

Để bổ sung bộ ba phụ thuộc lớn đối với các nước ngoài châu Âu, Đức còn phụ thuộc hơn bao giờ hết vào Hoa Kỳ về an ninh.

Ngay cả thách thức trực diện của Donald Trump đối với các đối tác châu Âu của NATO trong nhiệm kỳ tổng thống đầu tiên của ông cũng chỉ tạo ra sự điều chỉnh chậm chạp và miễn cưỡng của việc Đức tăng chi tiêu quốc phòng. Tất nhiên, Angela Merkel đã có một bài phát biểu nổi tiếng dưới biểu ngữ của một quán bia ở ngoại ô Munich, trong đó bà tuyên bố rằng “thời đại mà chúng ta có thể hoàn toàn dựa vào những nước khác phần nào đã qua”. Nhưng tuyên bố này không dẫn đến một sự thay đổi cơ bản trong chính sách.

Nếu tất cả những điều này xảy ra dưới thời Merkel, thì trong 12 trong số 18 năm đó, Đảng Dân chủ Thiên chúa giáo đã ở trong một “liên minh lớn” với Đảng Dân chủ Xã hội. Những sai lầm tồi tệ nhất trong quan hệ với Nga phần lớn là do Đảng Dân chủ Xã hội, đặc biệt là đường ống dẫn khí Nord Stream 2, được đàm phán, phê duyệt và xây dựng sau khi cuộc chiến tranh Nga-Ukraine bắt đầu vào năm 2014. Trong suốt nhiệm kỳ cuối cùng của Angela Merkel, Bộ trưởng tài chính kiêm phó thủ tướng là cựu thị trưởng Hamburg, Olaf Scholz, người kế nhiệm bà làm thủ tướng vào tháng 12 năm 2021, sau một chiến thắng bầu cử đáng ngạc nhiên.

Những sai lầm tồi tệ nhất trong quan hệ với Nga phần lớn là do các nhà Dân chủ xã hội.

TIMOTHY GARTON ASH

Scholz: thủ tướng của thời chuyển tiếp

Sau đó, bất ngờ, vào ngày 24 tháng 2 năm 2022, Putin đã phát động cuộc xâm lược quy mô lớn vào Ukraine.

Sự khởi đầu của cuộc chiến tranh lớn nhất mà Châu Âu phải đối phó kể từ năm 1945 đã biến các giả định cơ bản của nước Đức thời hậu 1989 – chính trị, kinh tế và quân sự, và cả đạo đức – thành đống đổ nát, mặc dù ít được nhìn thấy ngay lập tức hơn so với những đống đổ nát của thành phố Marioupol của Ukraine nhưng không kém phần thực tế. Ở vùng nông thôn, nơi mà tám thập niên trước, lực lượng Đức Quốc xã đã tàn phá các thị trấn và khủng bố dân thường, nước Nga của Putin hiện đang tấn công các thị trấn và làng mạc đó, đôi khi thậm chí là cũng chính những con người đó – chẳng hạn như Boris Romanchenko, người khi còn là một thiếu niên, đã sống sót sau bốn trại tập trung của Đức Quốc xã, bao gồm Buchenwald và Bergen-Belsen, và đã bị tên lửa Nga giết chết ở Kharkiv.

Xúc động sâu sắc trước nỗi kinh hoàng này, một nhóm học giả, doanh nhân, chính trị gia và các nhà hoạt động của xã hội dân sự đã ký vào một lời kêu gọi vào tháng 3 năm 2022, yêu cầu chính phủ Đức gây áp lực buộc Liên Minh tẩy chay ngay việc các nhiên liệu hóa thạch từ Nga. Văn bản do các đồng nghiệp người Đức của chúng tôi viết thừa nhận rằng đây sẽ là một “kỳ tích to lớn” về mặt kinh tế. Nhưng nó dựa trên những luận chứng lịch sử:

Nhìn lại lịch sử của mình, nước Đức đã nhiều lần thề nguyện rằng sẽ KHÔNG BAO GIỜ xảy ra các cuộc chiến tranh xâm lược và tội ác chống lại loài người. Ngày nay đã đến lúc thực hiện nguyện vọng này. Chúng ta phải làm mọi thứ để ngăn chặn cỗ máy chiến tranh của Putin thông qua các phương tiện chính trị và kinh tế của chúng ta.

Chính phủ liên minh do Olaf Scholz lãnh đạo đã quyết định không thực biện pháp triệt để này.

Sự khởi đầu của cuộc chiến tranh lớn nhất mà Châu Âu phải đối phó kể từ năm 1945 đã biến những giả định cơ bản của nước Đức thời hậu 1989 thành đống đổ nát.

TIMOTHY GARTON ASH

Cách Scholz trình bày lập luận về việc không làm gì rất có ý nghĩa. Đức và Châu Âu sẽ rơi vào suy thoái: “Hàng trăm nghìn việc làm sẽ gặp nguy hiểm, nhiều ngành công nghiệp sẽ hoàn toàn bên bờ vực thẳm.” Ông đặc biệt nghĩ đến các công ty hóa chất lớn của Đức như BASF, công ty tiêu thụ khoảng 4% tổng lượng tiêu thụ khí đốt hàng năm của cả nước thông qua đường ống dẫn khí đốt của chính mình. Sau đó Scholz tuyên bố – bởi vì chúng ta không nên quên rằng ở Đức mọi thứ đều phải hài hòa với mọi thứ khác – “sẽ chẳng ích lợi gì cho ai nếu, với đôi mắt rộng mở, chúng ta đặt mô hình kinh tế của mình vào tình thế nguy hiểm” (chính chúng tôi nhấn mạnh). Nhưng nếu Putin đột nhiên bị tước đi nguồn tài chính chính cho cỗ máy chiến tranh của mình, thì điều đó chắc sẽ có lợi cho một ai đó: người dân Ukraine.

Các quan chức chính phủ cấp cao mà tôi đã nói chuyện vào thời điểm đó lập luận rằng các thiệt hại kinh tế gây ra sẽ đe dọa sự đồng thuận xã hội ở Đức – bao gồm cả sự ủng hộ dành cho Ukraine.

Scholz nói, tốt hơn hết là nên từ từ tập hợp dư luận Đức còn do dự, vì đây sẽ là một cuộc chiến lâu dài.

Một số chuyên gia phản bác rằng trên thực tế, mức giảm tổng thể trong GDP của Đức do ngừng nhập khẩu năng lượng có lẽ sẽ ít hơn 3% – mặc dù tất nhiên BASF sẽ bị ảnh hưởng nặng nề hơn nhiều. Đúng vậy. Chúng ta hãy chấp nhận lập luận cũng được Bộ trưởng phụ trách vấn đề này – Robert Habeck thuộc đảng Xanh – đưa ra theo đó điều tổn hại thấp nhất là cai nước Đức khỏi nhiên liệu hóa thạch của Nga càng nhanh càng tốt mà không phải chịu cú sốc kinh tế lớn này. Theo sự phân biệt nổi tiếng của Max Weber, đây là “đạo đức về trách nhiệm” chứ không phải là “đạo đức về niềm tin”. Nhưng cũng cần phải biết chi phí phát sinh là bao nhiêu và ai đã chi trả cho chi phí này.

Theo sự đánh giá độc lập tỉ mỉ và chi tiết nhất, trong năm đầu tiên của cuộc chiến, Đức đã trả cho Nga khoảng 28,5 tỷ euro để mua khí đốt, dầu và than. Một phần số tiền này được dành cho việc sản xuất và vận chuyển các loại nhiên liệu này. Nhưng giá xăng và dầu đã tăng vọt sau cuộc chiến của Putin, vì vậy Đức đã phải trả nhiều hơn mức họ phải trả trong 12 tháng trước đó để có ít khí đốt, dầu và than hơn – khi việc cai (nhiên liệu nhập khẩu từ Nga) tiếp tục diễn ra nhanh chóng. Vì ngành năng lượng của Nga là một phần không thể thiếu trong bộ máy Putin, nên có lý khi kết luận rằng các khoản thanh toán này đã đóng góp đáng kể vào việc tài trợ cho cuộc chiến tranh khủng bố của Nga ở Ukraine. Để có được một tiêu chuẩn so sánh, ngân sách quốc phòng của Nga cho năm 2022 ước tính vào khoảng 86 tỷ euro.

Theo sự đánh giá độc lập tỉ mỉ và chi tiết nhất, trong năm đầu tiên của cuộc chiến, Đức đã trả cho Nga khoảng 28,5 tỷ euro để mua khí đốt, dầu và than.

TIMOTHY GARTON ASH

Đồng thời, đây cũng là danh dự của quốc gia này, Đức đã trở thành một trong những nước chính ủng hộ Ukraine.

Theo cơ quan theo dõi viện trợ đáng tin cậy nhất, Đức đã cam kết viện trợ quân sự, kinh tế và nhân đạo khoảng 22,1 tỷ euro cho Kiev từ cuối tháng 1 năm 2022 đến cuối tháng 10 năm 2023, đứng thứ nhì sau Hoa Kỳ. 10,5 tỷ euro bổ sung đã được cam kết, chủ yếu dưới hình thức mua sắm cho ngành công nghiệp quốc phòng trong 4 năm tới. Vào năm 2024, thủ tướng Đức thậm chí còn cho phép mình lên lớp các nước Châu Âu khác về sự cần thiết phải làm nhiều hơn nữa cho Ukraine.

Bắt đầu phá bỏ Bức tường Berlin tại Cổng Brandenburg. © Rolf Schulten/SIPA

Tuy nhiên, ở mỗi giai đoạn, Scholz đã chần chừ trong việc gửi các hệ thống vũ khí mạnh hơn – như xe chiến đấu bộ binh Marder, xe tăng Leopard hay gần đây hơn là tên lửa Taurus mà Ukraine có thể dùng để đe dọa nghiêm trọng đến các tuyến cung cấp của Nga tới Crimée. Nhiều lập luận, thường dao động, đã được đưa ra. Ý chính vẫn là nỗi lo sợ về sự leo thang từ phía một nước Nga được trang bị vũ khí hạt nhân. Trong khi Scholz cùng với Tổng thống Pháp Emmanuel Macron nói về “chủ quyền Châu Âu”, chính phủ của ông, ngược lại với Pháp và Anh, bám vào Washington, không làm gì hơn trong lãnh vực hỗ trợ quân sự cho Kiev những gì mà chính quyền Mỹ hiện tại cũng làm.

Ở mỗi giai đoạn hỗ trợ Ukraine, Scholz đều chần chừ trong việc gửi các hệ thống vũ khí mạnh hơn.

TIMOTHY GARTON ASH

Để giải thích lập trường của Scholz, cần phải hiểu tiểu sử và tính cách của chính ông cũng như sự hiện diện của xu hướng xoa dịu Nga trong đảng của ông, được đại diện rõ ràng nhất bởi người lãnh đạo các thành viên của đảng này trong quốc hội, Rolf Mützenich, người gần đây đã kêu gọi “đóng băng” chiến tranh ở Ukraine. Theo một cách nào đó, Scholz cũng có thể được coi là một nhân vật đại diện của nước Đức trong thời kỳ chuyển đổi này – một Otto Normalscholz (một giáo viên, tức là một con người bình thường – ND), bị giằng xé giữa những điều chắc chắn cũ không còn giá trị và những hướng đi mới vẫn chưa được thiết lập.

Sự mất phương hướng tương tự có thể được nhìn thấy ở các lĩnh vực khác, chẳng hạn như cách tiếp cận của Đức với Israel trong cuộc chiến ở Gaza và cuộc tranh luận mới chớm nở về cách phản ứng với một nhiệm kỳ thứ hai của Trump.

Đức đã rút ra hai mệnh lệnh từ trách nhiệm lịch sử của mình đối với Holocaust: một cam kết cụ thể với Israel, được tóm tắt trong khẳng định năm 2008 của Merkel rằng an ninh của Israel là một phần của Lý lẽ quốc gia/Staatsräson – về chính sự tồn tại của quốc gia – của nền Cộng hòa liên bang, và một cam kết toàn cầu để bảo vệ nhân quyền và luật nhân đạo quốc tế ở khắp mọi nơi. Trong mười năm qua, Đức chịu trách nhiệm về 30% lượng nhập khẩu vũ khí của Israel, chỉ đứng sau Hoa Kỳ, và đã nhanh chóng tăng cường xuất khẩu vũ khí sau vụ tấn công khủng bố kinh hoàng của Hamas vào ngày 7 tháng 10 năm 2023. Nhưng cách hành xử liều lĩnh tàn bạo mà Benjamin Netanyahu đã tiến hành trong cuộc chiến phòng thủ của Israel chống lại Hamas, rõ ràng dẫn đến những vi phạm nghiêm trọng đối với luật nhân đạo quốc tế, đã đẩy hai mệnh lệnh này – cái riêng và cái phổ quát – vào một cuộc xung đột đầy đau xót.

Hình tượng của Scholz phản ánh nước Đức trong giai đoạn chuyển tiếp này.

TIMOTHY GARTON ASH

Hơn nữa, viễn cảnh Donald Trump tái đắc cử vào ngày 5 tháng 11 – bốn ngày trước lễ kỷ niệm 35 năm ngày Bức tường Berlin sụp đổ – đặt ra câu hỏi về sự cam kết của Hoa Kỳ trong việc tôn trọng Điều 5 của NATO – vốn đảm bảo khả năng phòng thủ của các nước thành viên Châu Âu theo nguyên tắc “tất cả vì một, một vì tất cả”. Tháng 2 vừa rồi, trong một cuộc vận động tranh cử ở Nam Carolina, Donald Trump khoe rằng ông đã nói với các nhà lãnh đạo NATO rằng ông sẽ “khuyến khích” Nga làm “bất cứ điều gì họ muốn” đối với các nước Châu Âu không chi nhiều hơn cho quốc phòng của họ. Phản ứng ở Đức? Trong nhiều ngày, giới truyền thông đã đưa ra nhiều suy đoán về cách tạo ra lực lượng răn đe hạt nhân của Châu Âu có khả năng bao trùm cả nước Đức. Đột nhiên, một quốc gia vừa hoàn thành việc loại bỏ năng lượng hạt nhân dân sự lại nói về việc được trang bị với vũ khí hạt nhân…

Như các nhà khoa học chính trị Ivan Krastev và Stephen Holmes đã quan sát rõ ràng, cuộc khủng hoảng trật tự quốc tế tự do đã trở thành cuộc khủng hoảng về bản sắc nước Đức. Những giả định cũ đã sụp đổ; những hướng đi mới vẫn cần phải được tìm ra.

Cuộc khủng hoảng trật tự quốc tế tự do đã trở thành cuộc khủng hoảng về bản sắc nước Đức.

TIMOTHY GARTON ASH

Nước Đức vĩ đại – tiếp theo là gì?

Chương cuối cùng trong cuốn lịch sử tổng hợp xuất sắc của David Blackbourn về nước Đức từ năm 1500 đến năm 2000 có tựa đề “Câu trả lời cho vấn đề của nước Đức”. Nó kết thúc bằng việc dự đoán sự xuất hiện, trong thiên niên kỷ mới, một vấn đề về nước Đức “thuộc loại mới”. Đây là vấn đề chính. Điều gì sẽ đến sau “nước Đức vĩ đại”?

Vì bài viết này phê phán sự tổng kết của Đức nên điều quan trọng là phải chỉ ra rằng các nền dân chủ lớn khác của phương Tây thậm chí còn đáng bị chỉ trích gay gắt hơn. Đức đã không có hành động quốc gia điên rồ nào có thể so sánh được với Brexit vốn gây tổn hại cho Vương quốc Anh và Châu Âu nói chung. Không ai có thể cạnh tranh với Pháp khi gây ra sự nhầm lẫn giữa lợi ích quốc gia và lợi ích của Châu Âu. Các phiên bản Ý của AfD đang thực sự cai trị đất nước, và bà thủ tướng thời hậu phát xít mới của Fratelli d’Italia, Giorgia Meloni, được coi là ôn hòa so với đối tác liên minh của bà, Matteo Salvini của đảng Lega. Nếu Donald Trump trở về quê hương của ông nội ông, Friedrich Trumpf, ông sẽ không có cơ hội giành chiến thắng trong cuộc bầu cử quốc gia – trong khi ông có cơ hội đáng báo động tái đắc cử ở Hoa Kỳ.

Nhưng chủ đề của chúng tôi là nước Đức. Và Đức là cường quốc trung tâm của Châu Âu. Đức có hơn một phần sáu dân số của Liên Minh và tạo ra hơn một phần năm GDP của Liên Minh. Nền kinh tế của nó lớn gấp đôi nền kinh tế Nga. Liệu điều này có khiến nước này trở thành bá chủ? Heinrich-August Winkler, nhà sử học Đức lão thành, cho rằng giống như nước Đức thời Bismarck, Cộng hòa Liên bang chiếm một “vị thế bán bá quyền” ở Châu Âu. Thuật ngữ này minh họa vấn đề địa chính trị kinh điển của nước Đức hiện đại: quy mô trung bình của nó – vừa quá lớn vừa quá nhỏ.

Một vấn đề địa chính trị kinh điển mà nước Đức hiện đại phải đối mặt: quy mô trung bình – vừa quá lớn vừa quá nhỏ.

TIMOTHY GARTON ASH

Tuy nhiên, Cộng hòa Liên bang chắc chắn là quốc gia hùng mạnh nhất trong Liên Minh Châu Âu. Hẳn là, Berlin không phải lúc nào cũng đạt được điều họ muốn, nhưng rất ít chuyện xảy ra mà họ không muốn. Trong cuốn sách sắp xuất bản về “sự trỗi dậy và những hạn chế của quyền bá chủ của Đức trong sự hội nhập Châu Âu”, Herman van Rompuy, người từng là chủ tịch Hội đồng Châu Âu các nhà lãnh đạo quốc gia của Liên Minh từ năm 2010 đến năm 2014, viết thẳng thừng: “Trong những năm nhiệm kỳ của tôi, chỉ có một lần lập trường của Hội Đồng Châu Âu không tương ứng với lập trường của Đức“. Vậy thì, đối với Châu Âu, sự lựa chọn của Đức quan trọng hơn là tương lai của bất kỳ quốc gia Châu Âu nào khác.

Trong 75 năm tồn tại của Cộng hòa Liên bang, Đức đã trải qua ba thời điểm quan trọng về sự lựa chọn chiến lược: quyết định của thủ tướng sáng lập nước này, Konrad Adenauer, liên kết chặt chẽ Cộng hòa Liên bang non trẻ với Phương Tây xuyên Đại Tây Dương vào những năm 1950 – chính sách được gọi là “Westbindung/Liên kết với Phương Tây” -; “Ostpolitik/Chính sách hướng về Phương Đông” của Thủ tướng Willy Brandt, chính sách hòa dịu của Tây Đức đối với khối Xô Viết được thực hiện vào những năm 1970; và cam kết của Thủ tướng Helmut Kohl nhằm tích hợp sự thống nhất nước Đức vào các giai đoạn sau của quá trình thống nhất Châu Âu vào những năm 1990.

Tại mỗi bước ngoặt này, đều có “những con đường chưa được đi”, tiêu đề của một cuộc triển lãm soi sáng tại Bảo tàng Lịch sử Đức ở Berlin. Dư luận Đức vào thời điểm đó tỏ ra không tin tưởng vào con đường để theo và các quyết định đã bị tranh cãi gay gắt.

Hẳn là, Berlin không phải lúc nào cũng đạt được điều họ muốn, nhưng rất ít chuyện xảy ra mà họ không muốn.

TIMOTHY GARTON ASH

Đối với mỗi bước ngoặt trên, ba yếu tố được tập hợp lại: cá nhân của một nhà lãnh đạo, một cuộc tranh luận quốc gia và một bối cảnh quốc tế. Hẳn là, “ban đầu là Adenauer”, để trích dẫn câu đầu tiên trong tác phẩm cơ bản của Arnulf Baring về Nền dân chủ thủ tướng của Adenauer/La démocratie-chancelière d’Adenauer – nhưng sự lựa chọn của người sáng lập đã được thực hiện trong bối cảnh quốc tế của sự phân chia Châu Âu đang ngày càng trầm trọng do cuộc Chiến tranh Lạnh. Chắc chắn, Brandt là một nhà lãnh đạo đầy cảm hứng – nhưng chính sách Ostpolitik của ông cũng là phiên bản Đức của các chính sách hòa hoãn mà Hoa Kỳ, Pháp và Anh theo đuổi. Chắc chắn, vai trò cá nhân của Kohl, giống như tầm vóc thể chất của ông, là rất lớn – nhưng ông cũng hành động vào thời điểm mà sự nhiệt tình hội nhập Châu Âu đang lên đến đỉnh điểm và để đáp ứng yêu cầu bức thiết từ các đối tác Châu Âu, đặc biệt là Pháp.

Bối cảnh quốc tế hiện nay đòi hỏi phải có sự thay đổi về định hướng chiến lược. Về mặt lãnh đạo, Scholz dường như là một nhân vật của thời chuyển tiếp – nhưng một người khác có thể xuất hiện, muộn nhất là sau cuộc bầu cử quốc gia dự kiến ​​diễn ra vào mùa thu năm 2025. Adenauer, Brandt và Kohl không trở thành thủ tướng với tư cách là những chính khách vĩ đại của Châu Âu: họ đã lớn lên trong nhiệm kỳ của họ.

Còn lại cuộc tranh luận quốc gia, hiện đang diễn ra. Hầu như tất cả các điểm tôi đưa ra trong bài viết này đã được đề cập – đôi khi thậm chí còn rõ ràng hơn – bởi các nhà báo, các nhóm tư vấn chiến lược và các học giả Đức, với cuộc tranh luận cũng kéo dài thành một cuộc siêu-tranh luận căng thẳng về điều nào có thể nói hoặc không thể nói về Israel và Gaza. Các chuyên gia Đức về Nga và Đông Âu đã công khai chỉ trích chính sách thất bại của Berlin đối với Nga cũng như sự hỗ trợ yếu ớt của nước này đối với Ukraine. Về nhiều mặt, điều này gợi nhớ đến sự sôi động trí tuệ trong những năm 1960 đã dẫn tới Chính sách Ostpolitik mới.

Scholz dường như là một nhân vật của thời chuyển tiếp – nhưng một người khác có thể xuất hiện, muộn nhất là sau cuộc bầu cử quốc gia dự kiến ​​diễn ra vào mùa thu năm 2025.

TIMOTHY GARTON ASH

Thật không may, có ít bằng chứng cho thấy các chính trị gia và các lãnh đạo doanh nghiệp trong nước đang lắng nghe. Thế mà, giới chính trị Đức ngày nay cần có tư duy cởi mở và phê phán ít nhất cũng giống như một người đàn ông trung niên thừa cân cần tập thể dục. Những vấn đề cá nhân cấu thành nên vấn đề mới này của Đức rất khó giải quyết.

Vết tích của Bức tường Berlin trên Heidelberger Strasse giữa Neukoelln và Treptow. © Rolf Schulten/SIPA

Nếu mô hình kinh tế và thương mại cũ dựa trên xuất khẩu ngày càng không tương thích với mô hình chính trị dựa trên các giá trị của đất nước thì chúng ta có thể tìm mô hình mới ở đâu? Liệu Berlin, như nhà bình luận kinh tế gay gắt Wolfgang Münchau dự đoán, có “trở lại thói quen cũ là ký kết các thỏa thuận với các nhà độc tài Á-Âu vì lợi ích của ngành công nghiệp Đức” không? Trở về sau chuyến đi Trung Quốc gần đây, lãnh đạo bang Bavaria Markus Söder đã viết tweet rằng ông hài lòng khi được đóng vai trò là “người hộ tống” chính trị cho các công ty Đức, đồng thời nói thêm: “Chúng tôi đang thực hiện Chính sách thực tế hơn là Chính sách đạo đức”. Làm thế nào sự thay đổi thông qua sự đồng thuận có thể đạt được với sự phân mảnh của bối cảnh các đảng và sự gia tăng của các hoạt động cản trở và các đối trọng mang tính thể chế? Chúng ta nên làm gì khi đối mặt với các đảng chính trị cực đoan như AfD vốn nhận được sự ủng hộ rất rộng rãi từ dư luận?

Giới chính trị Đức ngày nay cần có tư duy cởi mở và phê phán ít nhất cũng giống như một người đàn ông trung niên thừa cân cần tập thể dục.

TIMOTHY GARTON ASH

Và rồi còn có sức mạnh quân sự. Nếu Đức chi tiêu một cách có hệ thống 2% GDP, Đức sẽ có ngân sách quốc phòng lớn thứ ba trên thế giới. Chúng ta có thể nghĩ rằng nếu Tổng thống Trump 2.0 giảm mạnh sự hiện diện của Mỹ thì Đức sẽ nhanh chóng trở thành cường quốc quân sự hàng đầu ở Châu Âu. Vậy tất cả những người lính và súng của Đức này sẽ được dùng vào việc gì? Họ sẽ được triển khai ở đâu, như thế nào và với đạo đức nào? Mars sẽ cùng tồn tại với Mercure như thế nào?

Tại Hội nghị An ninh Munich năm nay, sự tương phản thật là rõ ràng giữa lối hùng biện anh hùng của Tổng thống Ukraine Volodymyr Zelensky, người nói về “các chiến binh Ukraine nổi lên chống lại kẻ xâm lược” và ngôn ngữ kế toán nhạt nhẽo của Thủ tướng Đức. Theo sổ ghi chép của tôi, Scholz đã có lúc nói: “Chúng tôi thực sự ấn tượng với cách các binh sĩ Ukraine tiến hành các hoạt động của họ” (chính tôi nhấn mạnh). Chắc có lẽ ông ấy muốn nói họ chiến đấu? Trong tiếng Đức, ngôn từ chiến tranh đã bị đầu độc bởi sự liên kết của nó với chủ nghĩa Quốc xã. Năm 2020, người đứng đầu quân đội Đức đã gây chấn động khi tuyên bố lực lượng vũ trang nước này phải là “siegesfähig”, tức là có khả năng giành chiến thắng. Người Đức không gặp khó khăn này khi nói về đội bóng của họ. Bộ trưởng quốc phòng từ nay nói rằng các lực lượng vũ trang phải “kriegstüchtig”, sẳn sàng chiến đấu. Sẽ cần có trí tưởng tượng và biết suy xét để tìm ra từ vựng tiếng Đức mới phù hợp với nhiệm vụ khó khăn là chuẩn bị chiến đấu và chết để không phải chiến đấu và chết.

Xã hội Đức được mô tả là “hậu anh hùng”. Trong một cuộc thăm dò gần đây, chỉ có 38% số người được hỏi cho biết họ sẵn sàng cầm vũ khí để bảo vệ đất nước nếu bị tấn công, trong khi 59% cho biết họ sẽ không làm vậy. Nhưng trái lại với người Ba Lan hay người Estonia – chưa kể người Ukraine – hầu hết người Đức vẫn không tin rằng họ có thể sẽ cần làm điều đó.

Trái lại với người Ba Lan hay người Estonia – chưa kể đến người Ukraine – hầu hết người Đức vẫn không tin rằng họ có thể một ngày nào đó sẽ cần phải cầm vũ khí.

TIMOTHY GARTON ASH

Nói về Angst, nỗi sợ hãi của người Đức, là một câu nói sáo rỗng. Nhưng từ Angst cũng vừa là sự sợ hãi, vừa là sự lo âu. Đây là hai điều rất khác nhau. Nỗi sợ hãi có thể huy động – “bỏ chạy hoặc chiến đấu”. Sự lo âu làm tê liệt. Nước Đức hiện đang phải chịu đựng chính loại Angst sau, sự lo âu hơn là nỗi sợ hãi. Thách thức đối với các nhà lãnh đạo chính trị và trí tuệ sẽ là đưa dư luận này hướng tới một khuôn khổ thực tế hơn, mạch lạc hơn về mặt đạo đức, địa chính trị, kinh tế và sinh thái – mà không đột ngột chuyển từ thái cực này sang thái cực khác.

Còn Châu Âu thì sao? Ngay cả khi người Đức nói về Châu Âu với sự nhiệt tình và niềm tin cao độ – cựu Chủ tịch Hội đồng Châu Âu Herman van Rompuy nhận xét – thì Châu Âu cũng không phải khiến Đức phải trả giá quá đắt. Liệu người Đức có sẵn sàng, vì chính lợi ích lâu dài đã được chỉ rõ của mình, để tương lai của Châu Âu khiến họ phải trả một cái giá đắt hơn một chút không? Với những do dự của chính mình và của những người Châu Âu khác, đều dựa vào lịch sử – nói một cách nhẹ nhàng – trước sự tái xuất hiện của sức mạnh quân sự Đức, sẽ là hợp lý nếu Đức vạch ra con đường dẫn tới một ngành công nghiệp quốc phòng, một cấu trúc các lực lượng và một bộ chỉ huy quân sự của Châu Âu hợp nhất hơn. Nhưng điều này sẽ dẫn đến việc tập hợp chủ quyền trong một lãnh vực thậm chí còn quan trọng và nhạy cảm hơn việc đồng tiền quốc gia tan rã trong khu vực đồng euro. Đây là những thách thức đối với tất cả các nước Châu Âu, những nước luôn phải đối mặt với sự căng thẳng về mặt cấu trúc giữa các chính sách mang tính Châu Âu và các chính sách mang tính quốc gia.

Sự lo âu làm tê liệt. Nước Đức hiện đang phải chịu đựng chính loại Angst sau, sự lo âu hơn là nỗi sợ hãi.

TIMOTHY GARTON ASH

Trong khi chờ tìm được một thuật ngữ hấp dẫn hơn, tôi sẽ mô tả chiến lược mà Châu Âu cần từ Đức như một Gesamteuropapolitik, một chính sách toàn Châu Âu tập hợp những gì trước đây là các hộp riêng biệt của EuropapolitikOstpolitik. Liệu Đức có thể nghiêng cán cân của Liên Minh sang một cam kết chiến lược thực sự có lợi cho Ukraine, Moldova, Vùng Tây Balkan và Georgia không? Liệu Đức có thể mang đến một tư duy táo bạo và đổi mới cần thiết để một Liên Minh được cải cách vừa sẵn sàng cho việc mở rộng và vừa đối mặt với một thế giới nguy hiểm không? Liệu Đức có thể góp phần xây dựng một chính sách mới, thực tế của Châu Âu đối với Nga – không phải cho 20 tháng tới mà cho 20 năm tới không? Cuối cùng, làm thế nào Châu Âu nói chung – bao gồm cả các quốc gia như Anh, vốn đang tự đặt mình ra ngoài lề – có thể bảo vệ các giá trị và lối sống của riêng mình trong một thế giới nơi các cường quốc lớn và trung bình, thường có phản xạ chống các nước Phương Tây, như Trung Quốc, Ấn Độ, Thổ Nhĩ Kỳ và Brazil ngày càng dẫn đầu trong khi sự quan tâm của Mỹ đối với Châu Âu đã, đang giảm và sẽ tiếp tục giảm? Nước Đức không thể tự mình làm bất cứ điều gì trong số này, nhưng nếu không có Đức, không có điều gì trong số này sẽ xảy ra.

Đây là những điều khoản của vấn đề mới của nước Đức. Và người duy nhất có thể trả lời chính là người Đức.

Nguyên tác bài này đã được công bố trên New York Review of Books

Phạm Như Hồ dịch

Nguồn: “La nouvelle question allemande”, Le Grand Continent, 28.5.2024.

—-

Chú thích:

[*] Timothy Garton Ash là một nhà sử học, một nhà báo, một nhà văn Anh. Ông hiện là giáo sư về các nghiên cứu Châu Âu ở đại học Oxford. Phần lớn các nghiên cứu của ông là về lịch sử Trung Âu và Đông Âu hiện đại.

Bình luận về bài viết này

Trang web này sử dụng Akismet để lọc thư rác. Tìm hiểu cách xử lý bình luận của bạn.